Trong đó, từ năm 2006 đến 2009, ngân sách chỉ bố trí được 57% kinh phí, còn lại hội tụ vào năm 2010. MẠNH DƯƠNG. Trong đó, có sự đổi thay về quan điểm, tư duy, chuyển từ cơ chế tụ họp sang phân cấp cho địa phương với sự dự tích cực của người dân; chuyển từ hình thức "cấp không" sang hỗ trợ, cho vay; từ hỗ trợ trực tiếp hộ nghèo chuyển sang hỗ trợ hộ nghèo, nhóm hộ nghèo và cộng đồng bằng các mô hình sinh sản.
Nội dung các chương trình, chính sách chuyển dần theo hướng đa chiều, cùng với tương trợ trực tiếp người nghèo đã song song có sự quan hoài đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế - từng lớp và nâng cao năng lực cho người dân. Nâng cao vai trò, trách nhiệm cơ quan quản lý quốc gia theo chức năng, nhiệm vụ được giao. Tuổi (2006 - 2010), nguồn vốn cho giảm nghèo bố trí đạt hơn 90% so với kế hoạch, song không đồng đều và chưa thật sự đáp ứng tiến độ.
Tuy nhiên, công tác giảm nghèo đang gặp phải những thách thức, nhất là kết quả giảm nghèo chưa vững bền, tỷ lệ tái nghèo cao, gần 50% số hộ nghèo tụ tập ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng cao, vùng sâu; số hộ nghèo ở thành phố tăng lên trước những khó khăn kinh tế.
Để tiếp thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững trong điều kiện hiện thời, cơ chế điều hành của Chính phủ đóng vai trò quan yếu, nhất là cơ chế kết hợp giữa các bộ, ngành, địa phương.
Trong đó có việc nghiên cứu, điều chỉnh, đề xuất các chính sách, chương trình giảm nghèo đặc thù, thích hợp điều kiện từng vùng miền và đổi mới cơ chế, biện pháp tổ chức thực hành để nâng cao hiệu quả các chính sách, chương trình này. Hiệu quả công tác giảm nghèo là kết quả tác động, lồng ghép của nhiều chính sách với các nguồn lực dành cho giảm nghèo; do đó, đòi hỏi xây dựng cơ chế điều hành tương hợp mới mang lại hiệu quả cao nhất trong việc dùng nguồn lực.
Công tác điều hòa, kết hợp các chương trình, chính sách liên quan giảm nghèo của các cơ quan quản lý nhà nước, các địa phương chưa đồng bộ dẫn đến nguồn lực còn bị dàn trải, trùng lặp, lồng ghép chính sách đạt hiệu quả chưa cao, đã ảnh hưởng đến đầu tư và huy động nguồn lực cho chính sách giảm nghèo.
Giai đoạn (2011 - 2013), nguồn vốn bố trí đạt 64% kế hoạch, nhưng việc bố trí thường chậm, mức đầu tư thấp; ở cấp địa phương, việc bố trí nguồn vốn và giải ngân khó khăn, cách thức phân bổ còn phân tán, dàn trải.
Tỷ lệ hộ nghèo năm 1993 là 58%, đến nay giảm còn 7,8%. Các bên hệ trọng cần điều chỉnh cơ chế quản lý theo hướng xây dựng chương trình, chính sách tổng hợp, đa mục tiêu và dài hạn. Thống nhất dắt mối cơ quan chủ trì, tổ chức thực hiện chính sách đáp ứng đề nghị nhiệm vụ. Trong 20 năm qua, đã có hàng triệu hộ gia đình thoát nghèo.
Nhìn chung, chúng ta chưa hoàn tất đích giảm nghèo và những năm tới vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức, đòi hỏi phải có sự đổi mới mạnh mẽ hơn về cơ chế điều hành, phương thức quản lý để phân bổ nguồn lực giảm nghèo hiệp thời đoạn phát triển mới, khi thuộc tính nghèo không còn trải rộng mà tụ hội ở một số nhóm đối tượng, một số địa bàn khó khăn.